Đăk Lăk nằm ở trung tâm vùng Tây nguyên; phía bắc giáp tỉnh Gia Lai; phía đông giáp Phú Yên, Khánh Hòa; phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông; phía tây giáp Campuchia. Diện tích toàn tỉnh trên 13.000 km2.
Đăk Lăk nằm ở trung tâm vùng Tây nguyên; phía bắc giáp tỉnh Gia Lai; phía đông giáp Phú Yên, Khánh Hòa; phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông; phía tây giáp Campuchia. Diện tích toàn tỉnh trên 13.000 km2.
Campuchia, được mệnh danh là “đất nước chùa tháp”, nằm ở tây nam bán đảo Đông Dương; phía tây và tây bắc giáp Thái Lan, phía đông giáp Việt Nam, phía đông bắc giáp Lào, phía nam giáp biển. Thủ đô Phnom Penh là thành phố lớn nhất và trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Campuchia.
Campuchia có diện tích 181.035 km2, với một nửa là đồng bằng tập trung ở hướng nam và đông nam, còn lại là đồi, núi bao quanh đất nước. Hệ thống sông ngòi của Campuchia tập trung trong các lưu vực chính, như Biển Hồ (Tonle Sap) và vịnh Thái Lan. Sông Mekong chảy dài từ bắc
Theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc tính đến ngày 31/10/2023, dân số hiện tại của Campuchia là 17.456.634. Dân số Campuchia hiện chiếm 0,22% dân số thế giới, đứng thứ 71 trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.
Cuộc tổng điều tra dân số năm 2019 mà Chính phủ Campuchia cho biết, tính đến ngày 3/3/2019, tổng dân số quốc gia này 15.288.489 người, trong đó nam giới: 7.418.577 người; nữ giới: 7.869.912 người.
Tổng dân số tăng 1.892.807 người, tương đương 14,1% trong 11 năm qua (2008-2019). Số liệu này không bao gồm người Campuchia ở nước ngoài.
Cũng theo số liệu điều tra dân số năm 2019, tốc độ tăng trưởng dân số hằng năm của Campuchia giảm từ 1,5% trong giai đoạn 1998-2008 xuống mức 1,2% trong giai đoạn 2008-2019, cao hơn 1% so với tốc độ tăng trưởng trung bình ở Đông Nam Á.
Lưu ý, số liệu này không bao gồm người Campuchia ở nước ngoài.
Người Khmer là dân tộc lớn nhất ở Campuchia, chiếm khoảng 90% tổng dân số. Người Khmer sinh sống chủ yếu ở vùng hạ lưu sông Mekong và đồng bằng trung tâm.
Ngoài ra, tại Campuchia còn có nhóm “dân tộc thiểu số bản địa” và “dân tộc thiểu số không bản địa”.
Các dân tộc thiểu số bản địa hay còn gọi chung là “Khmer Loeu” (Khmer thượng/Khmer vùng cao) phần lớn sinh sống tại các tỉnh miền núi xa như Ratanakiri, Mondulkiri, Stung Streng và Kratie. Nhóm này có khoảng 17-21 dân tộc riêng biệt, có ngôn ngữ thuộc hệ Nam Á liên quan đến tiếng Khmer.
Các dân tộc thiểu số phi bản địa bao gồm: người Campuchia gốc Việt, người Campuchia gốc Hoa, người Chăm, người Thái và người Lào. Đây hầu hết là những người nhập cư và con cháu của họ sống trong cộng đồng Khmer, đã tiếp nhận văn hóa, ngôn ngữ Khmer.
Người Campuchia gốc Việt là nhóm dân tộc thiểu số phi bản địa lớn nhất tại Campuchia. Theo thống kê năm 2022, có khoảng hơn 100.000 người Campuchia gốc Việt sinh sống tại đây. Người Campuchia gốc Việt tập trung ở những đô thị như Phnom Penh, song một số đáng kể sống dọc theo sông Mê Kông, sông Bassac và vùng Biển Hồ (Tonle Sap) mưu sinh bằng nghề chài lưới.
Người Campuchia gốc Hoa là người Trung Quốc nhập cư từ nhiều vùng khác nhau của Trung Quốc trong suốt lịch sử hình thành và phát triển Campuchia.
Trong thời kỳ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, người Campuchia gốc Hoa là dân tộc thiểu số lớn nhất tại Campuchia với con số ước tính khoảng 425.000 người. Tuy nhiên, đến năm 1984 chỉ còn khoảng 61.400 người Campuchia gốc Hoa còn ở lại. Đây có thể là hậu quả của chiến tranh, tình trạng kinh tế đình đốn, Khmer đỏ và di cư.
Hiện nay, nhóm người Campuchia gốc Hoa nổi tiếng với các hoạt động kinh doanh lâu đời của mình trên đất nước Chùa tháp.
Người Chăm sinh sống tại đất nước này hầu hết
của vương quốc Champa trong lịch sử. Họ sinh sống xen kẽ với người Khmer tại vùng đồng bằng trung tâm. Đại đa số người Chăm theo đạo Hồi.
Ngoài ra, còn có một số lượng ít người Thái và người Lào sống dọc theo sông Mekong ở biên giới phía Đông bắc. Người Kola có văn hóa giống người Myanmar, những người đã ảnh hưởng rõ rệt đến văn hóa của tỉnh Pailin.
Dân số đô thị của Campuchia đang gia tăng và hiện chiếm khoảng 25% tổng dân số cả nước. Thủ đô Phnom Penh là nơi có dân số tập trung đông nhất với 2.129.371 người, tỉnh Kep tập trung dân số ít nhất với 41.798 người.
Theo Viện Thống kê Quốc gia Campuchia, dân số đô thị năm 2020 đạt trên 2,4 triệu người.
Dân số thành thị Campuchia năm 2022 là 4.211.076, tăng 2,91% so với năm 2021. Dân số thành thị Campuchia năm 2021 là 4.092.180, tăng 2,99% so với năm 2020. Dân số thành thị Campuchia năm 2020 là 3.973.287, tăng 2,98% so với năm 2019. Dân số thành thị Campuchia năm 2019 là 3.858.254, tăng 2,94% so với năm 2018.
có thể là do các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, cơ sở hạ tầng được cải thiện và cơ hội giáo dục và việc làm ở các thành phố.
Tỷ lệ giới tính theo kết quả điều tra dân số năm 2019 là: 94 nam/100 nữ. Tỷ lệ này không thay đổi so với năm 2008.
Theo nguồn danso.org, tính đến ngày 31/12/2022, dân số Campuchia ước tính là 17.278.043 người, tăng 222.189 người so với dân số 17.058.454 người năm trước.
Năm 2022, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là dương vì số người sinh nhiều hơn số người chết đến 251.756 người. Do tình trạng di cư dân số giảm -29.567 người. Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số là 0,955 (955 nam trên 1.000 nữ) thấp hơn tỷ lệ giới tính toàn cầu. Tỷ lệ giới tính toàn cầu trên thế giới năm 2022 khoảng 1.017 nam trên 1.000 nữ.
Trong năm 2022 tại Campuchia có 354.991 trẻ được sinh ra 103.234 người chết.
Tính đến ngày 31/12/2022, số lượng 8.440.169 nam giới; 8.837.874 nữ giới.
Mật độ dân số được tính bằng cách lấy dân số của Campuchia chia cho tổng diện tích đất của đất nước. Tổng diện tích là tổng diện tích đất và nước trong ranh giới quốc tế và bờ biển của Campuchia.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, mật độ dân số của Campuchia là 86 người/km2. Tính đến 31/10/2023, mật độ dân số của Campuchia là 99 người/km2.
Mật độ dân số thấp ở Campuchia một phần là do đất nước có diện tích đất rộng lớn và nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp.
Thành phố và thủ đô lớn nhất là Phnom Penh , với dân số 1,4 triệu người, hay 2,2 triệu người ở khu vực đô thị. Thành phố lớn nhất tiếp theo là Battambang, với dân số chưa tới 200.000 người.
một hình đồng hồ cát. Đây là do tác động của chiến tranh và chế độ chuyên chế trong quá khứ.
Theo dữ liệu gần đây nhất, theo ước tính năm 2021, tỉ lệ phần trăm của các nhóm tuổi khác nhau trong dân số Campuchia là như sau:
Độ tuổi từ 15 đến 64: khoảng 63%.
Độ tuổi từ 65 trở lên: khoảng 6%.
Sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế của Campuchia cũng đang tạo ra những thay đổi về cấu trúc tuổi trẻ của dân số. Tuy nhiên, đồng thời có sự gia tăng của nhóm tuổi già hơn do tăng tuổi thọ và cải thiện trong y tế và chăm sóc sức khỏe. Lưu ý rằng các con số này chỉ là ước tính và có thể thay đổi theo thời gian.
Trong năm 2023, dân số của Campuchia dự kiến sẽ tăng 217.033 người và đạt 17.492.641 người vào đầu năm 2024. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là dương vì số lượng sinh sẽ nhiều hơn số người chết đến 209.490 người.
Nếu tình trạng di cư vẫn ở mức độ như năm trước, dân số sẽ tăng 7.543 người. Điều đó có nghĩa
để định cư sẽ chiếm ưu thế so với số người rời khỏi đất nước này để định cư ở một nước khác.
Tỷ lệ tăng dân số giảm có thể do nhiều yếu tố, bao gồm cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, trình độ học vấn tăng lên và cơ hội kinh tế cho phụ nữ. Bất chấp sự suy giảm, Campuchia vẫn phải đối mặt với những thách thức đáng kể liên quan đến đô thị hóa nhanh chóng và nghèo đói.
Theo số liệu của trang web danso.org, tổng tuổi thọ (cả hai giới tính) ở Campuchia là 70,3 tuổi. Con số này thấp hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới (72 tuổi). Tuổi thọ trung bình của nam giới là 68,0 tuổi. Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 72,5 tuổi.
Trong phát biểu tại thủ đô Phnom Phenh vào tháng 6/2023, nguyên Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Husen khẳng định rằng dân số Campuchia sẽ sớm đạt 20 triệu người và sẽ trở thành nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030.
Theo Viện thống kê Quốc gia Campuchia dự báo, dân số nước này sẽ tăng từ 16.078.660 người (dân số cơ sở) lên 18.496.923 vào năm 2030 và lên 20.368.188 vào năm 2050.
Đây là mức tăng trung bình hàng năm là 1,27% từ năm 2019 đến năm 2030 và 0,76% từ năm 2019 đến năm 2050. Tốc độ tăng trưởng hàng năm từ năm 2030 đến năm 2050 là 0,48 phần trăm.
Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam diễn ra vào dịp kỷ niệm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11), được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phối hợp với các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương, tổ chức tại các khu dân cư, nhằm tôn vinh các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; tăng cường tinh thần đoàn kết, gắn bó toàn thể nhân dân.
Trong không khí vui tươi, phấn khởi, đầu tháng 11 vừa qua, nhân dân bản Tà Số 1 và Tà Số 2, xã Chiềng Hắc, huyện Mộc Châu tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc. Tại ngày hội, nhân dân đã cùng ôn lại lịch sử 94 năm Ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930-18/11/2024); kết quả thực hiện các cuộc vận động; phong trào thi đua yêu nước của bản trong năm 2024. Đồng thời, tham gia những hoạt động văn hóa đặc sắc, như múa khèn, thổi sáo, đàn môi, ném pa pao, đánh tu lu, đánh yến... Ngày hội, thu hút đông đảo bà con đến giao lưu, tăng thêm tình đoàn kết.
Hiện nay, bản Tà Số 1 và Tà Số 2 có trên 340 hộ đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Những năm qua, nhân dân 2 bản luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tập trung lao động, phát triển kinh tế. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đặc biệt phát huy lợi thế khí hậu mát mẻ, phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, nhân dân 2 bản phát triển du lịch cộng đồng, thu hút du khách đến tham quan khám phá và trải nghiệm; tạo động lực giúp bà con tiếp tục gìn giữ, bảo tồn những nét văn hóa truyền thống. Qua bình xét, năm 2024 cả 2 bản có 247 hộ đạt danh hiệu "Gia đình văn hóa".
Ông Mùa A Lứ, Bí thư chi bộ, Trưởng bản Tà Số 2, cho biết: Hiện nay, các gia đình đều thực hiện nếp sống văn hóa mới, phong tục lễ, tết đã thay đổi nhiều, tổ chức ngắn gọn, văn minh hơn. Nhất là, Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân năm nay, bản vinh dự đón lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo huyện, xã về chung vui, chúc mừng, động viên, khuyến khích người dân vươn lên trong cuộc sống; tạo động lực giúp bà con tiếp tục giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống, góp phần đa dạng các sản phẩm du lịch của Mộc Châu.
Chung vui với bà con nhân dân bản Tà Số 1, Tà Số 2, đồng chí Lưu Minh Quân, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trường Ban Dân vận Tỉnh ủy, nhấn mạnh: Đề nghị Chi ủy, Ban quản lý và Ban công tác mặt trận của 2 bản tiếp tục tục tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy ước, hương ước của bản. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua do các cấp, ngành phát động, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự.
Những ngày này, khắp các khu dân cư trong tỉnh ngập tràn không khí vui tươi, rộn ràng của Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây không chỉ là dịp để toàn thể nhân dân được tham gia các hoạt động tập trung ở cộng đồng dân cư, gắn kết tình làng nghĩa xóm, còn phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong góp ý, xây dựng khu dân cư ngày càng phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương.
Ông Lê Đình Châu, tổ 2, phường Quyết Thắng, Thành phố, phấn khởi: Tổ đã tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc đầy đủ 2 nội dung. Phần lễ tổ chức ngắn gọn, tập trung đánh giá Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Nổi bật, nhân dân trong tổ đóng góp Quỹ “Vì người nghèo”, “Quỹ đền ơn đáp nghĩa” đạt chỉ tiêu đề ra... Hòa với phần lễ trong ngày hội, các hoạt động văn hóa truyền thống và các trò chơi dân gian, văn nghệ diễn ra sôi nổi. Cùng với đó, những phần thưởng được trao cho các hộ gia đình văn hóa hay các suất học bổng để nâng bước, động viên học sinh đến trường.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm tổ chức ngày hội, năm nay, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong tỉnh tiếp tục triển khai, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng tổ chức ngày hội đảm bảo thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở, trọng tâm là địa bàn khu dân cư; nêu cao tinh thần, trách nhiệm, ý thức cộng đồng của mỗi người dân. Nhất là, tổ chức ngày hội gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở cơ sở và hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa", an sinh xã hội, trọng tâm là Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"; phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"; phong trào "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau"... Tất cả đã tạo nên một ngày hội thật sự trọn vẹn, thiết thực và nhiều ý nghĩa.
Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân, tích cực tham gia các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Nổi bật, MTTQ và các tổ chức thành viên trong tỉnh tích cực vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới đạt hiệu quả. Trong 2 năm qua, toàn tỉnh huy động nhân dân đóng góp 669.883 m2 đất để xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn, nhà văn hóa... với trên 30.520 ngày công lao động. Ngoài ra, còn nhiều tài sản, vật liệu tiếp tục được cộng đồng doanh nghiệp, HTX, nhân dân đóng góp.
Ông Lê Đình Phong, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh, chia sẻ: Sức lan tỏa mạnh mẽ của Ngày hội đại đoàn kết đã góp phần phát huy vai trò, thế mạnh của các tổ chức thành viên trong việc vận động đoàn viên, hội viên tham gia tổ chức, thực hiện các nội dung của Ngày hội. Tuyên truyền để đông đảo người dân hiểu hơn về lịch sử, truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về những kết quả đạt được trong Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, những gương người tốt, việc tốt; chú trọng phát hiện, tôn vinh và biểu dương những tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp, các mô hình hữu ích cho cộng đồng...
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp tạo điều kiện của chính quyền các cấp, sự hưởng ứng tham gia tích cực của các tổ chức thành viên và đông đảo nhân dân, Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư trên địa bàn tỉnh ngày một đáp ứng được yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới./.